Ca dao về sự vật, hiện tượng tự nhiên. Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ dân gian » Ca dao. ☆☆☆☆☆ 44.00. 214 bài thơ. - Đêm qua ra đứng bờ ao. - Có hoa có quả mới hay (II) - Trăng bao nhiêu tuổi trăng già. - Tò vò mà nuôi con nhện. - Đêm qua ra đứng bờ ao. Ca dao về chữ tín; Ca dao về cuộc sống kinh nghiệm sống; Ca dao về đạo đức; Ca dao về đoàn kết tương trợ; Ca dao về lao động sản xuất; Ca dao về lịch sử; Ca dao về quan hệ xã hội – Đối nhân xử thế; Ca dao về thời tiết; Ca dao về tình bạn; Ca dao về tình cảm gia Đôi ta lên thác xuống ghềnh, Em ra đứng mũi để anh chịu sào. Sông Bờ, sông Mã, sông Thao, Ba ngọn sông ấy đổ vào sông Gâm. Chẳng thanh cũng thể hoa mai, Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh. Tiếp theo 20 Câu Ca Dao Dân Ca Tục Ngữ Về Địa Phương, đọc nhiều hơn dành Sưu Tầm Những Câu Ca Dao Tục Ngữ Về Tình Bạn Từ ngàn đời xưa, bạn bè được coi là thứ tình cảm thiêng liêng. Để có được một tình bạn đẹp thì giữa những người bạn cần có sự chân thành, không toán tính, giúp nhau lúc hoạn nạn, chia sẻ niềm vui lúc hạnh phúc vui Tìm kiếm ca dao tục ngữ thời hiện đại phần 30 , ca dao tuc ngu thoi hien dai phan 30 tại 123doc - Thư viện trực tuyến hàng đầu Việt Nam Tìm kiếm ca dao tục ngữ thời hiện đại phần 3 , ca dao tuc ngu thoi hien dai phan 3 tại 123doc - Thư viện trực tuyến hàng đầu Việt Nam nrf240. Tổng hợp những câu ca dao tục ngữ về cây cối, câu dừa, cây tre, cây bưởi hay và hấp dẫn Các nội dung về đề tài tục ngữ về cây cối được quan tâm trên Wikivui Những câu ca dao tục ngữ về cây cối, cây dừa, cây tre, cây bưởi Các câu ca dao tục ngữ là những kinh nghiệm mà ông bà ta tóm gọn từ xa xưa rất có lợi và ý nghĩa. Các câu ca dao tục ngữ thường nói về ông bà cha mẹ, con cái, cuộc sống cũng như những điều rất ý nghĩa so với cuộc sống của tất cả chúng ta. Bên cạnh những câu ca dao tục ngữ về ông bà cha mẹ còn có những câu tục ngữ về thiên nhiên và con người. Những câu tục ngữ về thiên nhiên thường nhắc đến các hiện tượng thiên nhiên như mây, mưa, gió bão, ngoài các hiện tượng đó thì những câu ca dao tục ngữ còn nhắc đến cây cối như cây dừa, cây tre, cây bưởi,… những loại cây có ý nghĩa so với nhân dân ta, ý nghĩa về mặt kinh tế lẫn về mặt lịch sử, tất cả chúng ta cùng đi tìm hiểu về những câu ca dao tục ngữ về cây cối, câu dừa, cây tre, cây bưởi. Câu 1 Không chồng, son phấn qua loa, Có chồng, em trang điểm nước hoa dầu dừa Dừa là một loại cây rất thân thương và thân thuộc so với cuộc sống của con người. cây dừa được sử dụng hầu hết các phòng ban của cây như thân cây được dùng làm gỗ, lá cây dùng để lợp nhà, trái dừa dùng để uống nước,…. Tuy nhiên dừa còn dùng để làm nước hoa cho người phụ nữ xưa. Câu 2 Bến Tre dừa ngọt sông dài Nơi chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh. ở Việt Nam dừa được trồng nhiều nhất ở Bến Tre, ở đây có rất nhiều dừa và rất nổi tiếng về dừa. mỗi lần đến đây tất cả chúng ta sẽ thấy được rất nhiều sản phẩm được sử dụng làm nhiều trong cuộc sống. Từ Bến Tre có nhiều dừa làm ra kẹo nổi tiếng ở Mỏ Cày. Câu 3 Bến Tre dừa xanh bát ngát Đường đi Ba Vát gió mát tận xương. Bến Tre được biết tới với rất nhiều dừa, dừa xanh bát ngát khiến ai đi đến cũng thấy mát tận xương tận lòng. Tất cả chúng ta được biết tới rất nhiều loại dừa nhưng dừa rất nhiều ở Bến Tre rất nổi tiếng, tất cả chúng ta tự hào vì điều này. Câu 4 Thấy dừa thì nhớ Bến Tre. Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười. Mỗi nơi đều có một đặc trưng, đặc sản của nó, như Bến Tre có dừa, Đồng Tháp có bông sen. Mỗi nơi có một đặc trưng, một đặc sản riêng, tất cả chúng ta cảm thấy tự hào về những điều giản djj này. Dưới đây tổng hợp những câu ca dao tục ngữ về cây dừa Mài dừa dưới ánh trăng vàng, Ép dầu mà chải tóc nàng tóc anh Hòa Quý với tổng Hòa Thinh Dừa khô thổ sản nổi danh Nam Kỳ Quê em ba dải cù lao Có dừa ăn trái có cau ăn trầu. Quýt đường, vú sữa ngổn ngang, Dừa xanh Sóc Sãi, tơ vàng Ba Tri Theo năm tháng, bên hàng dừa xanh, dưới mái lều tranh Đồng quê thảnh thơi yên tịnh Cây lành trái đơm, cảnh đẹp hoa thơm Hữu tình trăng sáng gió mang Sông quê bến đợi đò xưa Quê hương vẫn đẹp xứ dừa thơ mộng Phong cảnh đồng quê lòng tôi mến chuộng ơi miền quê ngoại. Ôi tuổi thơ, ta dầm mưa ta tắm. Ta lội tung tăng trên mặt nước mặt sông. Ta lặn xuống, nghe vang xa tiếng sấm, Nghe mưa rơi, tiếng ấm tiếng trong. Ôi đâu rồi những trò chơi tuổi trẻ, Những tàu chuối bẹ dừa, những mảnh chòi nhỏ xíu, Những vết chân thơ ấu buổi trước nhất, Mấy tấm mo cau là mấy chiếc thuyền. Dừa ơi dừa! Người bao nhiêu tuổi Mà lá tươi xanh mãi đến giờ Tôi nghe gió ngàn xưa đang gọi Xào xạc lá dừa hay tiếng gươm khua… Dừa Bến Tre ba đồng một trái, Chuối Bến Tre một nải đồng ba. Ai biểu anh đến rồi lại đi ra, Để em thương nhớ, em chờ em đợi, nước mắt sa vắn dài. Trồng dừa ra đọt chặt tàu Sợ em đổi dạ tham giàu bỏ anh. Em đi lên xuống cầu dừa, Lấy ai có chửa đổ thừa cho anh. Kìa vườn dừa cây cao cây thấp Gió quặt quà cành lá xác xơ Thương em anh vẫn đợi chờ. Ăn dừa ngồi gốc cây dừa, Cho em ngồi với, cho vừa một đôi. Trời mưa lộp bộp lá dừa Bợp anh ba bợp cho anh chừa đi đêm. Gió mang gió đẩy lá dừa, Muốn ai thì muốn nhưng chừa em ra. Dừa xanh trên bến Sông Cầu Dừa bao nhiêu trái, dạ em sầu từng ấy. Trăng lên khuất bóng cây dừa, Làm thân con gái phải chừa đi đêm. Muốn trong bậu uống nước dừa Muốn nên cơ nghiệp, bậu chừa lang vân. Dừa tơ bẹ dún tốt tàng, Giàu sang có chỗ, điếm đàng có nơi. Đất thiếu trồng dừa, Đất thừa trồng cau. Dừa giao lá, cá giao đuôi. Ôi thân dừa đã hai lần máu chảy, Biết bao đau thương biết mấy oán hờn. Ai xui thằng giặc đi càn, Vô sâu ong đốt, ra đàng gặp chông. Dừa bị thương dừa không cúi xuống Vẫn ngẩng lên ca hát giữa trời Nếu ngã xuống dừa ơi không uổng Dừa lại đứng lên thân dựng pháo đài. Xem thêm đề tài sáng tạo kinh nghiệm mầm non Những câu ca dao tục ngữ về cây tre Câu 1 Tre già khó uốn. Cây tục ngữ nói về cây tre khi già sẽ khó uốn, khi già sẽ khó khăn trong việc uốn nắn để thành vật giống. Cây tục ngữ mươn cây tre để nói về sự giáo dục con người, khi còn nhỏ không giáo dục lớn lên sẽ không giáo dục được. Câu 2 Tre già măng mọc. Tre là một loại cây rất nổi tiếng, rất có ý nghĩa trong lịch sử của dân tộc Việt Nam ta. Khi tre già thì sẽ có măng mọc lên, tre là loài cây không lúc nào tàn, không lúc nào bị chết. Câu 3 Đóng tre căng bạc giữa đồng Các anh pháo thủ xoay nòng súng lên Súng anh canh cả trời đêm Để cho trăng đẹp toả lên xóm làng. Dây là câu tục ngữ nói về cây tre, nhắc đến giá trị và ý nghĩa của cây tre. Ngày xưa cây tre rất có ý nghĩa trong các cuộc kháng chiến, những cuộc kháng chiến luôn có sự hiện diện của cây tre. Tổng hợp một số câu ca dao tục ngữ về cây tre Tre già là bà lim. Có tre mới cho vay hom tranh. Tre non dễ uốn. Tre già nhiều người chuộng, người già ai chuộng làm chi. Tre lướt cò đỗ. Chặt tre cài bẫy vót chông Tre bao nhiêu lá thương chồng từng ấy. Em về cắt rạ đánh tranh Chặt tre chẻ lạt cho anh lợp nhà Sớm khuya hoà thuận đôi ta Hơn ai gác tía lầu hoa một mình. Một cành tre, năm bảy cành tre Đẹp duyên thì lấy chớ nghe họ hàng. Làng tôi có luỹ tre xanh Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng. Bên bờ vải, nhãn, hai hàng Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng. Trăng lên tắm luỹ tre làng Trăng nhòm qua cửa, trăng tràn vô nôi Trăng thơm bên má em tôi Xanh hàng mi nhỏ, bé cười xinh xinh. Ru em, em ngủ cho lành Cho chị ra điểm tập tành kẻo khuya Ngủ ngon, ngoan nhé, em nghe ! Dù cho địch đến đồng quê quê mình. Đừng hòng phá luỹ tre xanh Cướp con chim nhỏ trên cành của em Súng trường tay chị ngày đêm Bắn cho chúng nó một phen tơi bời. Một số câu ca dao tục ngữ về cây bưởi Câu 1 Trèo lên cây bưởi hái hoa Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân Nụ tầm xuân nở ra xanh ngắt Em đã có chồng anh tiếc lắm thay Bài ca dao nói về chuyện yêu đương của đôi trai gái được trổ tài qua các loại cây như cây bưởi, nụ tầm xuân,… Những hình ảnh ấy nói lên tính cảm yêu thương của người con trai so với người con gái mình yêu thương. Câu 2 Qua tỉ như chùm gởi đáp nhờ Gá vô nhánh bưởi nọ đặng nhờ hưởng hơi Câu ca dao trổ tài tình cảm của đôi trai gái, của nam nữ được trổ tài qua hình ảnh chum gởi và cây bưởi. hình ảnh chum gởi nhờ vào nhánh bưởi để hưởng hơi nhánh bưởi. Tổng hợp một số câu ca dao tục ngữ về cây bưởi Mưa tháng bảy gãy cành trám Nắng tháng tám rám cành bưởi Cái sáo mặc áo em tao Làm tổ cây cà Làm nhà cây chanh Đọc canh bờ giếng Mỏi miệng tiếng kèn Hỡi cô trồng sen! Cho anh hái lá Hỡi cô trồng bưởi! Cho anh hái hoa Cứ một cụm cà Là ba cụm lý Con nhà ông lý Mặc áo tía tô Tổng hợp một số câu ca dao tục ngữ về cây cối Ba năm mít mới đóng đài Hoa thơm nỏ rộ, hoa xoài nở đua Bông lài, bông lựu, bông ngâu Sao bằng hoa bưởi thơm lâu dịu dàng Cây bần kia hỡi cây bần Lá xanh bông trắng lại gần không thơm Hoa lài hoa lý hoa Ngâu Chẳng bằng hoa bưởi thơm lâu diệu dàng Một cành đào sớm nở hoa Muôn ngàn cây cỏ, theo đà nương thân. Ngó lên đám ngó xanh xanh Người mong hái nụ, người dành bẻ gương Tạnh trời mưa kéo về non Hẹn cùng cây cỏ chớ còn trông mưa Thiếu chi củi quế rừng ta Kiếm chi củi mục rừng xa đem về Tre già đan sọt, nứa tốt đan bồ Trồng Tùng tưới nước cho Tùng Em săm say trên đọt, dưới gốc sùng không hay Trồng cây cũng muốn cây xanh, Kết đôi hổng đặng để thành phu thê. Nghe vẻ nghe ve Nghe vè về rau Xấc láo hỗn hào Là rau nghề ngạnh Trong lòng không tránh Vốn thiệt tâm lang Đất rộng bò ngang Là rau muống biển Quan đòi thầy kiện Bình bát nấu canh Ăn hơi tanh tanh Là rau dấp cá Không ba có má Rau má có bờ Thò tay so đo Nó là rau nhớt Ăn cay như ớt Vốt thiệt rau răm Sống tới ngàn năm Là rau vạn thọ Tay hay xớ rớ Vốn thiệt rau co Làng bắt chẳng cho Chính là rau húng Lên chùa mà cúng Lại có hành hương Giục giã buông cương Là rau mã đề Thân em như quả mãng cầu Đơm lên quả tử hạc chầu lọng che Ai về Quảng Ngãi quê ta Mía ngon, đường ngọt, trắng ngà dễ ăn Mạch nha, đường phổi, đường phèn Kẹo gương thơm ngọt ăn quen lại ghiền. Trên đây là Ca dao, tục ngữ về cây cối, cây dừa, cây tre, cây bưởi, Ngoài ra còn rất nhiều các câu ca dao tục ngữ về cây khác các bạn các bạn có thể xem ở các bài liên quan của Xem thêm bài viết thuộc chuyên mục Cây Xanh Những bài ca dao - tục ngữ về "cây dứa" Cây tùng cây bá anh chê Cây tùng cây bá anh chê, Cây đa, cây dứa sum suê anh dùng. Còn duyên nón vải quai tơ Còn duyên nón vải quai tơ Hết duyên nón lá quai dừa cũng xong Trồng dừa ra đọt chặt tàu Trồng dừa ra đọt chặt tàu Sợ anh đổi dạ quay đầu bỏ em Dị bản Trồng dừa ra đọt chặt tàu Sợ em đổi dạ tham giàu bỏ anh Tới đây ngồi tạm lá dừa Tới đây ngồi tạm lá dừa Chiếu trải mặc chiếu anh chưa dám ngồi Nhà tôi có dãy vườn hoa Nhà tôi có dãy vườn hoa Có ba dãy nhãn, có ba dãy dừa Dù anh đi sớm, về trưa Sao anh chẳng nghỉ dãy dừa nhà tôi Gió đưa bụi chuối sau hè Gió đưa bụi chuối sau hè Bụi môn trước cửa ai dè em hư Gió đưa gió đẩy lá dừa Lấy ai thì lấy xin chừa em ra Tam Quan ít mít nhiều dừa Tam Quan ít mít nhiều dừa Nhiều cô gái đẹp mà chưa có chồng Khen ai khéo nặn nên dừa Khen ai khéo nặn nên dừa Đấy trèo đây hứng cho vừa một đôi Bến em có gốc dừa tơ Bến em có gốc dừa tơ Đêm trăng em đứng, em chờ đợi ai Ôm đàn gảy khúc Cầu hoàng Ôm đàn gảy khúc Cầu hoàng Thiếp xin gõ nhịp để chàng lựa dây Bao giờ rừng quế hết cây Dừa Tam Quan hết nước thì em đây mới hết tình Anh về không lấy gì đưa Anh về không lấy gì đưa Còn một trái dừa sót lại trên cây Khuyên anh ở lại trên này Để em về dưới chịu rầy cho anh. Ăn dừa ngồi gốc cây dừa Ăn dừa ngồi gốc cây dừa, Cho em ngồi với, cho vừa một đôi Thơm không ngon cũng tiếng thơm vườn Thơm không ngon cũng tiếng thơm vườn Dầu gá duyên không đặng cũng để đường xuống lên Trời mưa lộp bộp lá dừa Trời mưa lộp bộp lá dừa Bợp anh ba bợp cho anh chừa đi đêm Tưởng rằng cây dứa không gai Tưởng rằng cây dứa không gai Ai ngờ gai dứa lại dài hơn chông Em nói dối anh, em chửa có chồng Con ai em bế em bồng trên tay? Đất thiếu trồng dừa, đất thừa trồng cau Đất thiếu trồng dừa Đất thừa trồng cau Dị bản Thiếu đất trồng dừa Thừa đất trồng cau. Gió đưa gió đẩy lá dừa Gió đưa gió đẩy lá dừa, Muốn ai thì muốn nhưng chừa em ra Nắng lên cho héo lá lan Nắng lên cho héo lá lan Cho đáng kiếp chàng, phụ rẫy tình xưa Nắng lên cho héo ngọn dừa Đánh chết chẳng chừa cái thói đổi thay Nắng lên cho héo nhánh mai Tui rủa tối ngày kẻ chẳng thủy chung Ngỡ là cây dứa không gai Ngỡ là cây dứa không gai Chả hay gai dứa lại dài hơn chông Anh nghĩ em chưa có chồng Anh đi qua cửa em bồng con ra Đứa con da trắng như ngà Bố mẹ chẳng giống hóa ra giống mình Đầu làng có một cây đa Đầu làng có một cây đa Cuối làng cây thị, ngã ba cây dừa Dầu anh đi sớm về trưa Anh cũng nghỉ mát cây dừa nhà tôi Anh vào anh chẳng đứng chẳng ngồi Hay là anh phải duyên tôi anh buồn Anh buồn anh chẳng muốn đi buôn Một vốn bốn lãi anh buồn làm chi Tôi là con gái nhỡ thì Chẳng thách tiền cưới làm chi bẽ bàng Rượu hoa chỉ lấy muôn quan Trâu bò chín chục họ hàng ăn chơi Vòng vàng chỉ lấy mười đôi Nhiễu tàu trăm tấm tiền rời một muôn Nào là của hỏi của han Ấy tiền dẫn cưới anh toan thế nào? Dị bản Đầu làng có một cây đa Cuối làng cây thị, ngã ba cây dừa Dù anh đi sớm về trưa Xin anh nghỉ bóng mát cây dừa nhà em! Tùng bá Cây tùng tòng và cây bách bá, trong văn chương thường được dùng để tượng trưng cho những người có ý chí vững mạnh, kiên cường, thẳng thắn. Đa Một loại cây thân thuộc, được coi như biểu tượng của làng quê Việt Nam, cùng với giếng nước và sân đình. Cây đa cổ thụ có tán rất rộng, có nhiều gốc và rễ phụ. Ở một số địa phương, cây đa còn được gọi là cây đa đa, hoặc cây da. Theo học giả An Chi, tên cây bắt nguồn từ đa căn thụ 多根樹 cây nhiều rễ, “một hình thức dân dã mà văn chương Phật giáo dùng để mô tả và gọi tên cây một cách súc tích nhất có thể có.” Cây đa Tân Trào Dứa Còn gọi là thơm hoặc gai, loại cây ăn quả có thân ngắn, lá dài, cứng, có gai ở mép và mọc thành cụm ở ngọn thân, quả có nhiều mắt, phía trên có một cụm lá. Cây dứa đang ra quả Khoai môn Tên một số giống khoai gặp nhiều ở nước ta, cho củ có nhiều tinh bột, ăn được. Có nhiều giống khoai môn như môn xanh, môn trắng, môn tím, môn tía, môn bạc hà, môn sáp, môn sen, môn thơm, môn trốn... mỗi loại có những công dụng khác nhau như nấu canh, nấu chè... Trước đây môn, sắn, khoai, ngô... thường được ăn độn với cơm để tiết kiệm gạo. Cây và củ khoai môn Tam Quan Thị trấn phía bắc tỉnh Bình Định, thuộc huyện Hoài Nhơn. Đây nổi tiếng là "xứ dừa" của Bình Định. Dừa Tam Quan Có bản chép dựng hoặc tạc. Có bản chép cho vừa lòng nhau. Đây cũng là hai câu chữ Nôm trong bức tranh Tết tên Hứng dừa Kĩ thuật của người An Nam - Henri Oger. Tranh Hứng dừa Phượng cầu hoàng Nghĩa là "chim phượng trống tìm chim phượng mái," một khúc đàn được Tư Mã Tương Như gảy để tỏ tình với Trác Văn Quân. ây là một khúc đàn tình tứ lãng mạn Phượng hề phượng hề quy cố hương Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng Thời vị ngô hề vô sở tương Hữu diện thục nữ tại khuê phường Thất nhĩ ngân hà, sầu ngã trường Hà duyên giao cảnh vi uyên ương Tương hiệt ương hề cộng cao tường Trong Bích Câu Kỳ ngộ có câu Cầu hoàng tay lựa nên vần Tương Như lòng ấy Văn Quân lòng nào Quế Một loại cây rừng, lá và vỏ có tinh dầu thơm. Vỏ quế ăn có vị cay, là một vị thuốc quý Quế chi trong các bài thuốc Đông y. Trong văn học cổ, cây quế thường tượng trưng cho sự thanh cao, đẹp đẽ. Thu hoạch và phơi quế Rầy La mắng phương ngữ. Gá duyên Kết thành nghĩa vợ chồng. Bợp Tát phương ngữ Trung và Nam Bộ. Chửa Chưa từ cổ, phương ngữ. Đất thiếu nghĩa là nhà còn khó, nên trồng dừa để có cái ăn. Ngược lại, đất thừa nghĩa là nhà khá giả, có thể trồng cau để làm cảnh. Có nơi giảng đây là kinh nghiệm trồng dừa và cau, do đặc điểm sinh trưởng khác nhau nên tùy theo điều kiện đất đai mà trồng cho thích hợp. Mai vàng Một loài cây cho hoa năm cánh màu vàng rực, được trưng bày rất nhiều ở miền Trung và miền Nam nước ta vào mỗi dịp Tết Nguyên Đán. Hoa mai vàng gọi tắt là hoa mai và hoa đào là hai loài hoa tượng trưng cho mùa xuân. Hoa mai vàng Thị Loài cây thân gỗ, sống lâu năm, cho quả màu vàng, rất thơm, ăn được. Trước giờ ra về, bao giờ nó cũng bóc thị ra và hai đứa tôi cùng ăn. Ăn xong, chúng tôi không quên dán những mảnh vỏ thị lên bàn rồi ngoẹo cổ nhìn. Những mảnh vỏ thị được bóc khéo khi dán lên bàn hoặc lên tường trông giống hệt một bông hoa, có khi là hoa quì, có khi là hoa cúc đại đóa, có khi là một loài hoa không tên nào đó màu vàng. Mắt biếc - Nguyễn Nhật Ánh Quả thị Muôn Mười nghìn từ cũ, đồng nghĩa với vạn. Quan Đơn vị tiền tệ cổ của nước ta dùng đến đầu thế kỷ 20. Đối với tiền quý cổ tiền, một quan bằng 60 tiền 600 đồng kẽm. Với tiền gián sử tiền, một quan bằng 360 đồng kẽm. Nhiễu Hàng dệt bằng tơ, sợi ngang xe rất săn, làm cho mặt nổi cát. Dẫn cưới Đưa lễ đến nhà gái để xin cưới. Những bài ca dao - tục ngữ về "trái khóm" Vè trái cây Nghe vẻ nghe vè Nghe vè trái cây Dây ở trên mây Là trái đậu rồng ủ vợ đủ chồng Là trái đu đủ Cắt ra nhiều mủ Là trái chuối chát Mình tựa gà ác Trái khóm, trái thơm. Cái đầu chôm bôm Là trái bắp nấu Hình thù xâu xấu Trái cà dái dê … Đậu rồng Còn gọi là đậu khế, hay đậu xương rồng, hoặc đậu cánh, thuộc loại thân thảo leo, nếu được dựng giàn, đậu rồng có thể bò lan trên 3m. Đậu rồng sinh trưởng và phát triển chủ yếu ở những nước nhiệt đới và cận nhiệt đới, giàu dinh dưỡng lại rất dễ trồng. Đậu rồng Đu đủ Loại cây ăn quả rất thường gặp ở Việt Nam. Quả đu đủ có thể ăn xanh làm nộm, hầm, hoặc làm mắm hoặc ăn chín. Cây và quả đu đủ, từ quyển Medicinal-Plants 1887 của Koehler Chuối chát Chuối hột lúc còn non, thường được dùng trong các món trộn hoặc rau sống. Chuối chát Khóm Loại cây có họ hàng với dứa, ở mép lá có răng như gai nhọn, khi chín quả không có màu vàng như dứa. Ở một số vùng người ta cũng gọi chung khóm và dứa là một. Dứa Còn gọi là thơm hoặc gai, loại cây ăn quả có thân ngắn, lá dài, cứng, có gai ở mép và mọc thành cụm ở ngọn thân, quả có nhiều mắt, phía trên có một cụm lá. Cây dứa đang ra quả Cà dái dê Còn có tên là cà tím, quả mọng nhiều cùi thịt, chứa nhiều hạt nhỏ và mềm, được dùng để chế biến thức ăn trong nhiều nền ẩm thực Á, Âu. Tên cà tím và cà dái dê đều không thực chính xác vì có nhiều quả cà tím không mang màu tím, hay không có hình thù như dái dê. Cà tím Mục lục Đầu 0–9 A Ă Â B C D Đ E Ê F G H I J K L M N O Ô Ơ P Q R S T U Ư V W X Y Z Ca dao 歌謠 là thơ ca dân gian Việt Nam được truyền miệng dưới dạng những câu hát không theo một điệu nhất định, thường phổ biến theo thể thơ lục bát cho dễ nhớ, dễ thuộc. Ca dao là một từ Hán Việt, theo từ nguyên, ca là bài hát có chương khúc, giai điệu; dao là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc. A - Ă - Â Ai ơi bưng bát cơm đầy, Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần. Ai đưa con sáo sang sông, Để cho con sáo sổ lồng bay ra. Anh về học lấy chữ hương, Chín trăng em đợi, mười thu em chờ. Anh đi anh nhớ quê nhà, Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương. Nhớ ai dãi nắng dầm sương, Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao. Anh em nào phải người xa, Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân. Yêu nhau như thể tay chân, Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy. Anh đi anh nhớ non buồi Nhớ sông Vị Thủy, nhớ người còn trinh Áo anh sứt chỉ đường tà Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu. Ai về Hà Tĩnh thì về, Mặc lụa chợ Hạ, uống chè hương sen. Ai về Tuy Phước ăn nem, Ghé qua Hưng Thạnh mà xem Tháp Chàm. Ai về đến huyện Đông Anh, Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương. Cổ Loa hình ốc khác thường, Trải qua năm tháng, nẻo đường còn đây. Anh hùng là anh hùng rơm, Ta cho mồi lửa hết cơn anh hùng. Ai về tôi gửi buồng cau, Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy. Ai về nhớ Vải Ninh Hòa, Nhớ cau Hổ Bái, nhớ cà Đan Nê, Nhớ dừa Quảng Hán, Lựu Khê, Nhớ cơm chợ Bản, thịt dê Quán Lào. Ai về Nhượng Bạn thì về, Gạo nhiều, cá lắm, dễ bề làm ăn. Anh ơi! Cố chí canh nông Chín phần ta cũng dự trong tám phần Hay gì để ruộng mà ngăn, Làm ruộng lấy lúa,chăn tằm lấy tơ. C Cây cao thì gió càng lay , Càng cao danh vọng càng đầy gian nan. Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. D Dã tràng se cát biển đông, Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì. Dù ai nói ngả nói nghiêng, Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân. Dạy con từ thuở còn thơ, Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về. Dù em con bế con bồng, Thi đua yêu nước quyết không lơ là. Dù ai đi ngược về xuôi, Cơm nắm lá cọ là người sông Thao. Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba. Dao cau rọc lá trầu vàng Mắt anh anh liếc,mắt nàng nàng đưa. Ai về đến huyện Sa Pa Nhớ xem phong cảnh nóc nhà Đông Dương Đ Đi cho biết đó biết đây, Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn. Con gái nói có là không, Nói yêu là ghét, nói buồn là vui. Đàn ông đi biển có đôi, Đàn bà đi biển mồ côi một mình. Đời người có một gang tay, Ai hay ngủ ngày còn có nửa gang. Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, Mà chỉ khó vì lòng người ngại núi e sông. Đa tình thì vướng nợ tình, Trách người đã vậy, trách mình sao đây ! Đã cam quấn quít má đào, Những mong chim nhạn mai trao chỉ hồng. Đêm qua ra đứng bờ ao, Trông cá, cá lặn, trông sao, sao mờ. Buồn trông con nhện giăng tơ Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai ? Buồn trông chênh chếch sao Mai. Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ? Đôi ta bắt gặp nhau đây, Như con bò gầy gặp bãi cỏ hoang. Đôi ta như tượng mới tô, Như chuông mới đúc, như chùa mới xây. Đôi ta như lửa mới nhen, Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu. Đôi ta như rắn liu điu, Nước chảy mặc nước, ta dìu lấy nhau. Đôi ta như ruộng năm sào, Cách bờ ở giữa làm sao cho liền? Đôi ta như thể đồng tiền, Đồng sấp, đồng ngửa, đồng nghiêng, đồng nằm. Đôi ta như thể con bài, Đã quyểt thì đánh, đừng nài thấp cao Đôi ta như đá với dao, Năng siếc, năng sắc, năng chào, năng quen. Đôi ta như ngãi Phan Trần, Khi xa ngàn dặm, khi gần bên đôi. Đôi ta như rượu với nem, Đang say ngây ngất, ai dèm chớ xa. Đôi ta như lúa đòng đòng, Đẹp duyên nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha Đôi ta như chỉ xe ba, Thầy mẹ xe ít, đôi ta xe nhiều. Đêm nằm lưng chẳng tới giường, Trông cho mau sáng ra đường gặp em. Đi ngang thấy ngọn đèn chong chóng, Thấy em nho nhỏ, muốn bồng mà ru. Đường dài ngựa chạy biệt tăm, Người thương có nghĩa trăm năm cũng về. Đầu năm ăn quả thanh yên, Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bòng. Vì cam cho quýt đèo bòng, Vì em nhan sắc cho lòng nhớ thương. Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng? Trầu vàng nhá lẫn cau xanh, Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời. Đói lòng ăn nửa trái sim, Uống lưng bát nước đi tìm người thương Người thương, ơi hỡi, người thương, Đi đâu mà để buồng hương lạnh lùng. Đôi ta cùng bạn chăn trâu, Cùng mặc áo vá nhuộm nâu một hang. Bao giờ cho gạo bén sang, Cho trăng bén gió, cho nàng bén anh. Đường xa thì thật là xa, Mượn mình làm mối cho ta một người. Một người mười tám đôi mươi, Một người vừa đẹp vừa tươi như mình. Đêm đêm tưởng dải Ngân Hà, Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn. Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn, Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ. Đêm qua vật đổi sao dời, Tiếc công gắn bó nhỡ lời giao đoan. Đêm qua trời sáng trăng rằm, Anh đi qua cửa em nằm không yên. Mê anh chẳng phải mê tiền, Thấy anh lịch sự có duyên dịu dàng. Thấy anh em những mơ màng, Tưởng rằng đây đấy phượng hoàng kết đôi. Thấy anh chưa kịp ngỏ lời, Ai ngờ anh đã vội dời gót loan. Thiếp tôi mê mẩn canh tàn, Chiêm bao như thấy anh chàng ngồi bên. Tỉnh ra lẳng lặng yên nhiên, Tương tư bệnh phát liên miên cả ngày. Nghĩ rằng duyên nợ từ đây, Xin chàng hãy lại chơi đây chút nào. Cho thiếp tỏ thiệt thấp cao! Đợi chờ trúc ở với mai, Đợi chờ anh ở với ai chưa chồng. Đi qua nghiêng nón, cúi lưng, Anh không chào, em không hỏi, vì chưng đông người. Đôi ta thương mãi nhớ lâu, Như sông nhớ nước, như nhành dâu nhớ tằm. Đấy, đây xứng đáng cũng vừa, Xin đừng kén chọn lọc lừa nơi nao. Đu đủ tía, giềng giềng cũng tía, Khoai lang ngâm, ngọn mía cũng giâm. Củi kia chen lẫn với trầm, Em giữ sao cho khỏi, kẻo lầm, bớ em! Đi đâu bỏ nhện giăng mùng, Bỏ đôi chiếu lạnh, bỏ phòng quạnh hiu! Đại Hoàng phong cảnh hữu tình, Của nhiều đất rộng gái xinh trai tài. Đố ai lặn xuống vực sâu, Mà đo miệng cá, uốn câu cho vừa. Đố ai bắt chạch đằng đuôi, Bắt chim đầu cánh, bắt người trong trăng. Đố ai biết đá mấy hòn, Tua rua mấy chiếc, trăng tròn mấy đêm. Đố ai lượm đá quăng trời, Đem gầu tát biển, ghẹo người trong trăng. Đom đóm bay ra, trồng cà tra đỗ, Tua rua bằng một, cất bát cơm chăm. Tháng tư mua nứa đan thuyền, Tháng năm tháng sáu gặt miền ruộng chiêm. Đố ai tát bể Đông Khê, Tát sông Bồ Đề, trăng tròn mấy đêm. Đông Thành là mẹ là cha, Đói cơm rách áo thì ra Đông Thành. Đường vô xứ Nghệ quanh quanh, Non xanh nước biếc như tranh họa đồ. Ai vô xứ Nghệ thì vô! Đường lên Mường Lễ bao xa? Trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh. Đường lên xứ Lạng bao la? Cách một trái núi với ba quãng đồng. Ai ơi, đứng lại mà trông, Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ… Đường về Kiếp Bạc bao xa? Đường về Kiếp Bạc có cây đa Bồ Đề. Có yêu anh cắp nón ra về, Giàu ăn, khó chịu chớ hề thở than. Đất ta bể bạc, non vàng, Bể bạc Nam Hải, non vàng Bồng Miêu. Đố ai biết lúa mấy cây, Biết sông mấy khúc, biết cây mấy tầng. Đi bộ thì khiếp Hải Vân, Đi thuyền thì khiếp sóng Thần, hang Dơi. Yêu nhau cho thịt cho xôi, Ghét nhau đưa đến Kim Bôi , Hạ Bì. Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá, Đò từ Vĩ Dạ thẳng ngả Ba Sình. Lờ đờ bóng ngả trăng chênh, Tiếng hò xa vọng, nặng tình nước non. Đức Thọ gạo trắng nước trong, Ai về Đức Thọ thong dong con người. Đầm Đại Từ hoa sen thơm ngát Giếng Đại Từ nước mát nước trong Dòng Tô uốn khúc lượn quanh Đất nuôi trẻ nhỏ lừng danh trong ngoài. Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm. Đố anh con rết mấy chân? Núi Đầu Mâu mấy thước, chợ Hôm mấy người? Đất Châu Thành anh ở Xứ Cần Thơ nọ em về Bấy lâu sông cận biển kề Phân tay mai trúc dầm dề hột châu. Đống Đa ghi để lại đây, Bên kia thanh miếu, bên này Bộc am. Đồng Nai có bốn rồng vàng, Lộc họa Lễ phú San đàn Nghĩa thi. Đời vua Thái Tổ, Thái Tông, Con bế con bồng, con dắt, con mang. Bò đen húc lẫn bò vàng, Hai con húc chắc, đâm quàng xuống sông. Thằng bé chạy về bảo ông ”Bò đen ta ngã xuống sông mất rồi”. Đàn ông miệng rộng thì tài, Đàn bà miệng rộng điếc tai láng giềng. Đàn ông nông nổi giếng khơi, Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu. Đói thì đầu gối phải bò, Cái chân hay chạy cái giò hay đi. Đồng tiền không phấn không hồ, Sao mà khéo điểm khéo tô mặt người! Đem chuông đi đấm nước người, Chẳng kêu cũng đấm ba hồi lấy danh. Đi đâu mà bỏ mẹ già, Gối nghiêng ai sửa, tách trà ai dâng. Đói lòng ăn hột chà là, Để cơm nuôi mẹ , mẹ già yếu răng. Đẻ con chẳng dạy chẳng răn, Thà rằng nuôi lợn mà ăn lấy lòng. Đã sinh ra kiếp ở đời, Trai thời trung hiếu đôi vai cho tròn. Gái thời trinh tịnh lòng son, Sớm hôm gìn giữ kẻo còn chút sai. Trai lành gái tốt ra người, Khuyên con trong bấy nhiêu lời cho chuyên. Đã rằng là nghĩa vợ chồng, Dầu cho nghiêng núi, cạn sông chẳng rời. Đắng cay cũng thể ruột rà, Ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng. Em chồng ở với chị dâu, Coi chừng kẻo nó giết nhau có ngày. Con cô, con cậu thì xa, Con chú, con bác thật là anh em. Đói thì ăn ngô, ăn khoai, Đừng ở với dượng, điếc tai láng giềng. Đường đi những lách cùng lau, Cha mẹ tham giàu ép uổng duyên con. Duyên sao cắc cớ, hỡi duyên! Cầm gương, gương tối, cầm vàng, vàng phai. Đừng nài lương giáo khác dòng, Vốn đều con Lạc cháu Hồng khi xưa. Đôi ta như cái đòng đòng, Đẹp duyên, nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha. Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát, Đứng bên tê đồng, ngó bên ni đồng, bát ngát mênh mông. Thân em như chẽn lúa đòng đòng, Phất phơ giữa ngọn nắng hồng ban mai. Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm, Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say. Đồn rằng quan tướng có danh, Cưỡi ngựa một mình, chẳng phải vịn ai. Ban khen rằng"Ấy mới tài", Ban cho cái áo với hai đồng tiền. Đánh giặc thì chạy trước tiên Xông vào trận tiền cởi khố giặc ra! Giặc sợ, giặc chạy về nhà Trở về gọi mẹ mổ gà khao quân! Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa, Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh. Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu Anh về học lấy chữ Nhu Chín trăng em đợi mười thu em chờ. Đèn nào sáng bằng đèn Sa Đéc, Gái nào đẹp bằng gái Nha Mân, Anh thả ghe câu lên xuống mấy lần, Thương em đứt ruột, nhưng tới gần lại run. Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh, Nước Đồng Mười lóng lánh cá tôm, Muốn ăn bôn súng mắm kho, Thì vô Đồng Tháp ăn no đã thèm, E - Ê Em như hoa gạo trên cây Anh như một đám cỏ may bên đường. Lạy trời cho cả gió sương, Hoa gạo rụng xuống, lại luồn cỏ may. Em liều một cái bánh bò Còn nào chót chét,cặp giò chặt hai. G Gió đưa cây cải về trời, Rau răm ở lại, chịu lời đắng cay. Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương Mịt mù khói tỏa ngàn sương Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ. Gánh cực mà đổ lên non, Cong lưng mà chạy, cực còn theo sau. Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh, Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân? Gái Tầm Vu đồng xu ba đứa, Trai Thủ Thừa cưỡi ngựa xuống mua. Gái Thái Bình lòng ngay dạ thẳng, Trai bạc tình một cẳng về quê. Gắng công kén hộ cốm Vòng Kén chồng Bạch Hạc cho lòng ai vui Gà khôn gà chẳng đá lang Gái khôn gái chẳng bỏ làng gái đi. H Hoa thơm ai chẳng muốn đeo, Người khôn ai nỡ cứ theo nặng lời. Hoa thơm ai chẳng nâng niu, Người khôn ai chẳng mến yêu mọi bề. Hôm qua tát nước đầu đình, Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen. Em được thì cho anh xin, Hay là em còn để làm tin trong nhà. Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy, Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa. Em với anh cũng muốn kết nghĩa giao hòa, Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời. Em với anh cũng muốn kết tóc ở đời, Sợ rằng mây bạc giữa trời mau tan. Học trò xứ Quảng ra thi Thấy cô gái Huế bỏ đi không đành Hỡi cô tát nước bên đàng Sao cô tát ánh trăng vàng đổ đi I Ích nước lợi nhà L Làm trai cho đáng nên trai, Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng. Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Làm trai lấy được vợ hiền, Như cầm đồng tiền mua được của ngon. Làm trai quyết chí tu thân, Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo. Lên non mới biết non cao, Nuôi con mới biết công lao mẹ hiền. Lục tỉnh có hạt Ba Xuyên, Bạc Liêu chữ đặt, bình yên dân rày. Mậu Thìn vốn thiệt năm nay, Một ngàn hai tám, tiếng rày nổi vang. Phong Thạnh vốn thiệt tên làng, Giá Rai là quận, chợ làng kêu chung. Anh em Mười Chức công khùng, Bị tranh điền thổ, rùng rùng thác oan... Lênh đênh ba mũi thuyền kề, Thuyền ra Kẻ Chợ, thuyền về sông Dâu. Lênh đênh ba bốn thuyền kề, Chiếc ra Hà Nội, chiếc về sông Dâu. Vì tằm em phải hái dâu, Vì người lịch sự em ngồi rầu bên nong. Lênh đênh chiếc bách giữa dòng, Thương thân góa bụa phòng không lỡ thì. Gió đưa cây trúc ngã quỳ Ba năm trực tiết còn gì là xuân? Lênh đênh qua cửa Thần Phù Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm. Làng tôi có lũy tre xanh, Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng. Bên bờ vải nhãn hai hàng, Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng. M Muốn sang thì bắc Cầu Kiều Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy. Một cây làm chẳng nên non, Ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Mười năm lưu lạc giang hồ, Một ngày tu tỉnh, cơ đồ lại nên. Mấy đời bánh đúc có xương, Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng. Mẹ già như chuối chín cây, Gió lay mẹ rụng, con phải mồ côi. Mình về có nhớ ta chăng, Ta về ta nhớ hàm răng mình cười. N Nhà Bè nước chảy chia hai, Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về. Nhớ ai bổi hổi bồi hồi, Như đứng đống lửa như ngồi đống than. Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên đường hay không. Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng. Nực cười châu chấu đá xe, Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng. Ngoài miệng thì nói Nam mô, Trong lòng thì chứa ba bồ dao găm. Nghèo nhân nghèo nghĩa thì lo, Nghèo tiền nghèo bạc chả lo là nghèo. Ngó lên nuộc lạt mái nhà, Bao nhiêu nuộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu Nam Kì sáu tỉnh em ơi Cửu Long chín ngọn cùng khơi một nguồn, Sông Hương nước chảy trong luôn, Núi Ngự danh tiếng cả muôn dặm ngoài. Nước non lận đận một mình, Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Ai làm cho bể kia đầy, Cho ao kia cạn, cho gầy cò con? Ngang lưng thì thắt bao vàng, Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài. Một tay thì cắp hỏa mai, Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền. Tùng tùng trống đánh ngũ liên, Chân bước xuống thuyền nước mắt như mưa. Người ta rượu sớm trà trưa, Thân em đi sớm về trưa cả đời. Lạy trời ứng nghiệm một lời, Cho em gặp được một người em thương. Người ta bán vạn mua ngàn, Thân em buôn bán cơ hàn vẫn vui. Người ta đi đôi về đôi, Thân em đi lẻ về côi một mình. Người ta đi cấy lấy công, Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề. Trông trời, trông đất, trông mây, Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm. Trông cho chân cứng đá mềm, Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng. Núi cao chi lắm núi ơi, Núi che mặt trời chẳng thấy người thương! Nói chín thì nên làm mười Nói mười làm chín kẻ cười người chê. Người ta đi cấy lấy công Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề Trong trời trông đất trông mây Trong mưa trông nắng trông ngày trông đêm Trông cho chân cứng đá mềm Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng O - Ô - Ơ Ở đời muôn sự của chung, Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi. Ớt nào mà ớt chẳng cay, Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng Vôi nào là vôi chẳng nồng, Gái nào là gái có chồng chẳng ghen. Ở sao vừa được lòng người, Ở rộng người cười, ở hẹp người chê P Phượng hoàng ở chốn cheo leo, Sa cơ lỡ vận phải theo đàn gà. Bao giờ gió thuận mưa hòa, Thay lông đổi cánh lại ra phượng hoàng. Phải duyên phải kiếp thì theo, Cám còn ăn được, nữa bèo như anh. Phấn son tô điểm sơn hà, Làm cho rỡ mặt đàn bà nước Nam. Phong lưu là cạm ở đời, Hồng nhan là bẫy những người tài hoa. Phượng hoàng đậu nhánh vông nem, Phải dè năm ngoái cưới em cho rồi. Ngã tư Chợ Gạo nước hồi, Tui chồng mình vợ còn chờ đợi ai. Q Qua cầu ngả nón trông cầu, Cầu bao nhiêu nhịp, ngả sầu bấy nhiêu. Qua đình ngả nón trông đình, Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu. Quảng Nam có núi ngũ hành, Có sông Chợ Củi, có thành Đồng Dương. Quan văn mất một đồng tiền, Xem bằng quan võ mất quyền quận công. Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân, Nay anh học gần, mai anh học xa. Lấy anh từ thuở mười ba, Đến năm mười tám thiếp đà năm con. Ra đường thiếp hãy còn son, Về nhà thiếp đã năm con với chàng. Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân, Nay anh học gần, mai anh học xa. Tiền gạo thì của mẹ cha, Cái nghiên, cái bút thật là của em. Quân tử là quân tử Tàu, Ăn cơm thì ít, ăn rau thì nhiều. R Ra đi là sự đã liều, Nắng mai phố lạ, mưa chiều thôn xưa. Rồng vàng tắm nước ao tù, Người khôn ở với người ngu bực mình. Rượu nhạt uống lắm cũng say, Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm. Rủ nhau đi cấy đi cày, Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu. Trên đồng cạn, dưới đồng sâu, Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa. Rủ nhau xuống bể mò cua, Đem về nấu quả me chua trên rừng. Em ơi chua, ngọt đã từng, Non xanh, nước bạc ta đừng quên nhau. Ruộng đồng mặc sức chim bay, Nước sông lai láng cá bầy đua bơi. Rừng có mạch, vách có tai, Người trong chưa tỏ, người ngoài đã hay. Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ, Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn, Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn, Hỏi ai gây dựng nên non nước này? Ra đi ngó trước ngó sau, Ngó nhà thấy cột, ngó nhau thấy buồn. Ra đường bà nọ bà kia, Về nhà không khỏi cái nia cái sàng. Ra đường võng lộng nghêng ngang, Về nhà hỏi vợ cơm rang đâu rồi ? Ra sông mới biết cạn sâu, Ở trong lạch hói, biết đâu mà dò. Ra về bụng nhớ người thương, Tay vỗ thanh giường chép miệng thở than! Ra về ruột nọ quặn đau Nhơn sâm sắc uống mấy tàu cho nguôi. Rau muống bắt cuống rau răm, Làm chi đến nỗi chàng cầm cổ tay. Rau răm đất cứng dễ bứng khó trồng, Dù thương cho lắm cũng chồng người ta. Rau răm hái ngọn còn tươi, Lạng nghe anh nói mấy lời mà cay. Kể chi những chuyện trước đây, Lòng em tưởng những núi này, non kia. Rèm xưa ba bức mành manh, Mắt cô thế ấy tu hành được đâu. Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai, Nước sông trong chảy lộn sông ngoài, Thương người quân tử lạc loài tới đây. Rồng nằm bể cạn phơi râu, Mấy lời anh nói giấu đầu hở đuôi. Ru con con ngủ cho rồi, Mẹ ra chỗ vắng, mẹ ngồi than thân. Ruộng ai thì nấy đắp bờ, Duyên ai nấy gặp, đừng chờ uổng công. Rủ nhau đi cấy đi cày, Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu. Trên đồng cạn, dưới đồng sâu, Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa. Rượu lạt uống lắm cũng say, Người khôn nói lắm, dẫu hay cũng nhàm. Rượu nằm trong nhạo chờ nem, Qua nằm thuyền vắng chờ em một mình. Rừng như biển thánh khôn dò, Nhỏ mà không học, lớn mò sao ra. S Số giàu đem đến dửng dưng, Lọ là con mắt tráo trưng mới giàu. Số giàu tay trắng cũng giàu, Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo. Sông sâu có thể bắc cầu, Lòng người nham hiểm biết đâu mà mò. Sông sâu còn có kẻ dò, Lòng người nham hiểm ai đo cho tường. Sông dài cá lội biệt tăm, Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ. Ruộng ai thì nấy đắp bờ, Duyên ai nấy gặp đừng chờ uổng công. Số cô chẳng giàu thì nghèo Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà. Số cô có mẹ có cha Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông. Số cô có vợ có chồng, Sinh con đầu lòng, chẳng gái thì trai. Sông Vàm Cỏ nước trong thấy đáy, Dòng Cửu Long xuôi chảy dịu dàng, Ai về Mỹ Thuận, Tiền Giang, Có thương nhớ gã đánh đàn năm xưa? Sài Gòn có bến Chương Dương, Có dinh Độc Lập có đường Tự Do. T Thời giờ ngựa chạy, tên bay, Hết trưa lại tối, hết ngày lại đêm. Đông qua Xuân lại đến liền, Hè về rực rỡ, êm đềm Thu sang. Giờ con chăm học, chăm làm, Thì mai sau sẽ giỏi dang giúp đời. Nước nhà mong đợi con ơi, Hãy luôn ghi nhớ những lời thầy khuyên. Trăm năm đành lỗi hẹn hò, Cây đa bến cũ, con đò khác đưa. Trăm năm bia đá thì mòn, Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, Xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người. Trong đầm gì đẹp bằng sen, Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng. Nhị vàng bông trắng lá xanh, Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Ta về ta tắm ao ta, Dù trong dù đục, ao nhà vẫn hơn. Trứng rồng lại nở ra rồng, Liu điu lại nở ra dòng liu điu. Tay bưng dĩa muối chấm gừng, Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau. Thân em như hạt mưa rào, Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa. Thân em như hạt mưa sa, Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày. Thân em như hạt mưa sa, Hạt xuống giếng ngọc, hạt ra ruộng cày. Thôi thà đừng biết cho xong, Biết bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu. Tròng trành như nón không quay, Như thuyền không lái như ai không chồng. Gái có chồng như gông đeo cổ, Gái không chồng như mảnh gỗ long đinh. Gỗ long đinh anh còn chữa được, Chớ không chồng chạy ngược chạy xuôi, Không chồng khổ lắm chị em ơi! Thuyền ơi có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng nhớ thuyền. khăng khăng đợi thuyền. Tiếc thay hột gạo trắng ngần, Đã vo nước đục, lại vần than rơm. Tiếc thay hạt gạo tám xoan, Thổi nồi đồng điếu lại chan nước cà. Tóc mai sợi vắn sợi dài, Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm. Trách ai tính chuyện đa đoan, Đã hái được mận lại toan bẻ đào. Trách người quân tử vô danh, Chơi hoa xong lại bẻ cành bán rao. Trúc xinh trúc mọc đầu đình, Em xinh em đứng một mình cũng xinh. Thân tui thui thủi một mình, Đêm đêm lạnh lẽo buồn tình lang thang. Nếu ai nghĩ chuyện đá vàng, Tôi xin được dạo cung đàn tình chung. Thức khuya mới biết đêm dài, Ở lâu mới biết lòng người có nhân. Thương thay thân phận con tằm, Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ. Thương thay lũ kiến li ti, Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi. Thương thay hạc lánh đường mây, Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi. Thương thay con cuốc giữa trời, Dầu kêu ra máu co người nào nghe. Thân em như trái bần trôi, Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu. Thân em như củ ấu gai, Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen. Ai ơi, nếm thử mà xem Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi. Thân em như tấm lụa đào, Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. Thân em như cá giữa rào, Kẻ chài, người lưới biết vào tay ai? Thân em như cam quýt bưởi bòng Ngoài tuy cay đắng trong lòng ngọt ngon. Thân em như con hạc đầu đình, Muốn bay chẳng cất nổi mình mà bay. Thân em như ớt chín cây, Càng tươi ngoài vỏ càng cay trong lòng. Thân em như giếng giữa đàng, Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân. Thân em như miếng cau khô, Người thanh tham mỏng, kẻ thô tham dày. Thân em như chiếc chổi đầu hè, Để anh khuya sớm đi về chùi chân. Thân em như cái cọc rào, Mọt thì anh đổi, cớ sao anh phiền. Thân em như cái sập vàng, Anh như manh chiếu rách giữa đàng bỏ quên. Lạy trời cho gió cả lên, Cho manh chiếu rách trải trên sập vàng. Thân em như trái xoài trên cây, Gió đông, gió tây, gió nam, gió bắc, Nó đánh lúc la lúc lắc trên cành, Một mai rơi xuống biết đành vào tay ai? Thân em như rau muống dưới hồ, Nay chìm mai nổi biết ngày mô cho thành? Thân em như đóa hoa rơi, Phải chăng chàng thật là người yêu hoa? Thân em như cánh hoa hồng, Lấy phải thằng chồng như đống cỏ khô. Thân em như cá trong lờ, Hết phương vùng vẫy biết nhờ nơi đâu. Thân em đi lấy chồng chung, Khác nào như cái bung xung chui đầu. Thân em như quả dưa tây, Lâu lâu anh bóp cho lây nỗi buồn. Thân em như thể cánh bèo, Ngược xuôi xuôi ngược theo chiều nước trôi. Thân em vất vả trăm bề, Sớm đi ruộng lúa, tối về ruộng dâu. Có lược chẳng kịp chải đầu, Có cau chẳng kịp têm trầu mà ăn. Thân em như cột đình trung, Tay dơ cũng quẹt, tay phung cũng chùi. Thân em như cúc mọc bờ rào, Kẻ qua ngắt nhụy, người vào bẻ bông. Thân em như miếng bánh xèo, Nằm trong chạn bếp... biết mèo nào tha. Thân em như tấm lụa điều, Đã đông nơi chuộng lại nhiều nơi thương. Thân em như cá trong bồn, Không ăn có chịu, tiếng đồn oan chưa! Thân em như cái chuông vàng, Để trong thành nội có ngàn quân canh. Thân anh như thể cái chày, Bỏ lăn bỏ lóc chờ ngày dộng chuông. Thân em chẳng đáng mấy tiền, Vì tình em nặng, mấy nghìn cũng mua. Thân em như mấy củ khoai, Sáng sáng anh đói, anh nhai đỡ lòng. Thân em như cỏ ngoài đồng, Buồn thì anh nhổ, anh trồng rau răm. Thân em như cánh chuồn chuồn, Khi vui nó đậu, khi buồn nó bay. Thân em như giọt nắng xuân, Mơ vào cửa phủ thấm vần thơ anh. Thanh Trì có bánh cuốn ngon, Có gò Ngũ Nhạc có con sông Hồng. Thanh Trì cảnh đẹp người đông, Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh. Trầu Bà Điểm xé ra nửa lá, Thuốc Gò Vấp hút đã một hơi, Buồn tình gá nghĩa mà chơi, Hay là anh quyết ở đời với em? Thương thay thân phận con rùa, Lên đình đội hạc xuống chùa đội bia. Thương thay cây quê giữa rừng, Cay nồng ai biết, ngát lừng ai hay. Thương thay thân phận đàn bà, Hơn hai, ba tuổi vẫn là đàn em. Trầu Đồng Nai trầu ăn nhả bã, Thuốc Đồng Môn thuốc hút phà hơi. Trầu nồng thuốc thắm ai ơi, Gá duyên chồng vợ ở đời trăm năm. Tháng chạp là tháng trồng khoai, Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà. Tháng ba cày vỡ ruộng ra, Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng. Ai ai cùng vợ cùng chồng, Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay. Tháng năm gặt hái đã xong, Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy. Năm nong đầy em xay em giã, Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo. Sang năm lúa tốt tiền nhiều, Em đem đóng thuế, đóng sưu cho chồng. Đói no có thiếp có chàng, Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình. Tháng giêng là tháng ăn chơi, Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà. Tháng ba thì đậu đã già, Ta đi, ta hái về nhà phơi khô. Tháng tư đi tậu trâu bò, Để ta sắp sửa làm mùa tháng năm. Sớm ngày đem lúa ra ngâm, Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra. Gánh đi, ta ném ruộng ta, Đến khi nên mạ, thì ta nhổ về. Lấy tiền mượn kẻ cấy thuê, Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi. Cỏ lúa dọn đã sạch rồi, Nước ruộng vơi mười, còn độ một hai. Ruộng thấp đóng một gàu giai, Ruộng cao thì phải đóng hai gàu sòng. Chờ cho lúa có đòng đòng, Bây giờ ta sẽ trả công cho người. Bao giờ cho đến tháng mười, Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta. Gặt hái ta đem về nhà, Phơi khô quạt sạch ấy là xong công. Tháng giêng chân bước đi cày, Tháng hai vãi lúa ngày ngày siêng năng. Thuận mưa lúa tốt đằng đằng, Tháng mười gặt lúa ta ăn đầy Tháng giêng ăn tết ở nhà, Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè. Tháng tư đong đậu nấu chè, Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm. Tháng sáu buôn nhãn bán trăm, Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân. Tháng tám chơi đèn kéo quân, Trở về tháng chín chung chân buôn hồng. Tháng mười buôn thóc, bán bông, Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành. Trời cho cày cấy đầy đồng, Xứ nào xứ nấy trong lòng vui ghê. Một mai gặt lúa đem về, Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung. Trâu ơi ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta. Cấy cày vốn nghiệp nông gia, Ta đây trâu đấy ai mà quản công. Thằng Sang nói chuyện lung tung Thằng Trung nói chuyện mọi người dễ nghe thằng Sang như con chó đẻ Nó ngu hơn cả thằng điên giữa đường U Uốn cây từ thuở còn non Dạy con từ thuở con còn ngây thơ Ước gì sông rộng một gang, Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi. Ước gì anh hóa ra gương, Để cho em cứ ngày thường em soi. Ước gì anh hóa ra cơi, Để cho em đựng cau tươi trầu vàng. Uốn tre uốn thuở còn măng, Dạy vợ dạy thuở băn khoăn mới về. Ước gì sông hẹp một gang, Bắc cầu trải gấm cho chàng sang chơi. V Về ăn bánh đúc lá đa, Người ơi người hỡi công cha ngày ngày. Văn chương đựng không đầy lá mít, Võ thì đá không bể nổi mảnh sành, Nghe vua treo bảng cũng xòng xành ra thi. Bảng đề không biết chữ chi, Mài nghiên, mút bút có khi hết ngày. Ví dầu dượng cháu người dưng, Cháu cho dượng lấy dượng cưng suốt đời. Văn chương phú lục chẳng hay, Trở về làng cũ, học cày cho xong. Sớm ngày vác cuốc thăm đồng, Hết nước thì lấy gàu sòng tát lên. Hết mạ ta lại quảy thêm, Hết lúa ta lại mang tiền đi đong. Nữa mai lúa chín đầy đồng, Gặp về đập sảy bõ công cấy cày. X Xa xôi em chớ ngại ngùng, Xa người, xa tiếng nhưng lòng không xa. Xấu xa cũng thế chồng ta, Dù cho tốt đẹp cũng ra chồng người. Y Yêu nhau yêu cả đường đi, Ghét nhau ghét cả tông chi họ hàng. Yêu nhau mấy núi cũng trèo, Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua. Yêu nhau cởi áo trao nhau, Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay. Yêu nhau củ ấu cũng tròn, Ghét nhau thì củ bồ hòn cũng vuông. Yêu nhau cau bảy bổ ba, Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười. Những bài ca dao khác Tiền trao cháo múc Không tiền cháo trút trở ra Tin nhau buôn bán cùng phịch nhau Thiệt hơn, hơn thiệt, trước sau như lời Thay gì lừa đảo kiếm lời Một nhà ăn uống, tội trời riêng mang Theo chi những thói gian tham Pha phôi thực giả tìm đường dối nhau Của phi nghĩa có giàu đâu Ở cho ngay thật giàu sau mới bền Mẹ già như chuối ba hương, Như cơm nếp mật, như đường mía lau. Đường mía lau càng lâu càng ngát, Cơm nếp mật ngào ngạt hương say. Ba hương lây lất tháng ngày, Gió đưa mẹ rụng, con rày mồ côi. Mẹ già như áng mây trôi, Như sương trên cỏ, như lời hát ru. Lời hát ru vi vu trong gió, Sương trên cỏ khó vỡ dễ tan. Mây trôi lãng đãng trên ngàn, Gió đưa tan, hợp, hợp, tan, nao lòng. Xem thêm Ca dao tục ngữ Đồng dao Ca dao Việt Nam châm biếm, hài hước Ca dao Việt Nam về tình yêu quê hương, đất nước, con người Ca dao Việt Nam về quan hệ xã hội Ca dao Việt Nam về tình cảm gia đình Ca dao Việt Nam về tình yêu Ca dao Việt Nam về lao động và văn hóa Ca dao Việt Nam về chủ đề than thân Liên kết Wikipedia

ca dao về trái cây